Theo báo cáo của Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), tính từ thời điểm triển khai Chương trình phát triển vật liệu xây không nung theo Quyết định số 567/QĐ -TTg, sản lượng các loại vật liệu không nung đã tăng lên nhanh chóng.
Tính đến thời điểm này, tổng công suất đầu tư vào 3 loại sản phẩm chính, bao gồm: gạch xi măng cốt liệu, gạch AAC, gạch bê tông bọt đạt trên 6,3 tỷ viên QTC/năm.
Như vậy, nói về công suất hiện có gạch xi măng cốt liệu đang chiếm khoảng trên 80%, gạch nhẹ mới khoảng gần 20% so với tổng số gạch xây không nung.
Hiện nay, theo Chương trình phát triển vật liệu xây không nung, có 3 chủng loại VLXKN được phát triển sản xuất và sử dụng là gạch xi-măng - cốt liệu, gạch nhẹ và các loại gạch khác. Trong đó, gạch xi-măng - cốt liệu được ưu tiên phát triển và sử dụng, với tỷ lệ khoảng 74% vào năm 2015 và 70% vào năm 2020 trên tổng số VLXKN; gạch nhẹ (gồm 2 loại gạch từ bê-tông khí chưng áp và gạch từ bê-tông bọt) chiếm tỷ lệ khoảng 21% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020.
Còn các loại gạch khác, bao gồm gạch đá chẻ, gạch đá ong, VLXKN từ đất đồi và phế thải xây dựng, gạch silicát… đạt tỷ lệ khoảng 5% vào năm 2015.






Nhu cầu vốn đầu tư phát triển sản xuất VLXKN của cả nước đến năm 2020 cần 5.200 đến 6.500 tỷ đồng



Với quy mô sản xuất khá lớn sau một thời gian các doanh nghiệp chạy đua sản xuất là vậy, nhưng thực tế sử dụng vẫn còn một khoảng cách khá xa so với khả năng cung cấp.
Cụ thể, năm 2014 cả nước sử dụng tổng cộng 17,1 tỷ viên gạch xây QTC, trong đó có 13 tỷ viên QTC là gạch đất sét nung và 4,1 tỷ viên QTC là VLXKN.
Với tỷ lệ 24% VLXKN trong tổng số vật liệu xây được sử dụng trên toàn quốc, có thể nói mục tiêu của Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 đã đạt về tỷ lệ chung ( 20-25% vào năm 2015, 35-40% vào năm 2020).
Tuy nhiên, theo ông Lê Văn Tới, Vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng), trong sử dụng VLXKN, tỷ lệ sử dụng VLXKN loại nhẹ đang quá thấp so với mục tiêu (chỉ khoảng 10% trong VLXKN), cũng là một kết quả hạn chế trong việc thực hiện Chương trình.
Ông Tới cho rằng, 5 năm thực hiện Chương trình Phát triển VLXKN, đã khẳng định phát triển VLXKN nhằm thay thế dần gạch đất sét nung là một chủ trương đúng đắn. Hầu hết các địa phương đã nhận thức được mục đích, ý nghĩa của Chương trình Phát triển vật liệu xây dựng không nung. Theo đó, các cấp chính quyền của các địa phương đã chủ động hơn, quyết liệt hơn trong việc xóa bỏ các lò gạch thủ công, thủ công cải tiến và lò vòng sản xuất gạch đất sét nung; tăng cường chỉ đạo khuyến khích phát triển sản xuất và sử dụng VLXKN.
Đặc biệt tại một số địa phương đã xóa bỏ hoàn toàn lò gạch thủ công như: Bắc Ninh, Hải Dương, TP HCM, Đồng Nai… Các chủ đầu tư, nhà thầu, đặc biệt là các kiến trúc sư, các nhà tư vấn đã ý thức được trách nhiệm của mình trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thấu đáo để tăng cường sử dụng VLXKN, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung.
Thực tế, việc hạn chế sản xuất gạch nung và thay thế bằng gạch không nung đang là chủ trương lớn của Nhà nước và các bộ, ngành địa phương.
Việc kêu gọi xóa bỏ lò gạch thủ công và thu hút được số đông doanh nghiệp tham gia vào đầu tư các loại vật liệu không nung, đưa tỷ lệ sử dụng đạt trên 20% tại các công trình xây dựng là một trong những cái lớn đạt được của Chương trình sau 5 năm thực hiện.
Nhưng, để hiệu quả của Chương trình đạt cao hơn nữa trong giai đoạn tới, theo ông Tới, cần có những ưu đãi cụ thể, lâu dài về vốn, thuế, tiền thuê đất đối với các nhà sản xuất và từng loại VLXKN.
Theo tính toán, riêng nhu cầu vốn đầu tư phát triển sản xuất VLXKN của cả nước đến năm 2020 cần 5.200 đến 6.500 tỷ đồng.
Chẳng hạn ở Trung Quốc, các doanh nghiệp sản xuất VLXKN được miễn thuế suất VAT cho sản xuất gạch bê tông nhẹ. Ðồng thời có chính sách quản lý chặt chẽ sản xuất gạch đất sét nung, hạn chế tối đa việc sử dụng đất nông nghiệp làm nguyên liệu sản xuất gạch đất sét nung.
Ngoài ra, cần ban hành đồng bộ, chi tiết các chính sách ưu đãi sử dụng phế thải công nghiệp sản xuất VLXKN và bắt buộc sử dụng vật liệu mới vào các công trình xây dựng theo các tiêu chí cụ thể.
Đồng thời, từng bước hoàn thiện các giải pháp về khoa học kỹ thuật trong điều kiện Việt Nam, xây dựng, công bố và ban hành đầy đủ tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế, thi công, nghiệm thu… các công trình sử dụng vật liệu không nung. Hiện nay, nước ta cần thêm các tài liệu chuyên nghiệp và mang tính chuyên sâu về hướng dẫn thiết kế, thi công, định mức tiêu hao cho một đơn vị khối lượng xây dựng sử dụng vật liệu không nung.
Trên thế giới sử dụng VLXKN đã có từ lâu với tỷ lệ sử dụng rất cao, một số nước trong khu vực như Thái Lan, Malayxia có mức sử dụng VLXKN tới 70-80%, trong khi đó tỷ lệ này ở Việt Nam chỉ nằm ở mức 5-8% vào những năm trước 2010.
Vì vậy, Bộ Xây dựng khẳng định, việc sử dụng VLXKN thay thế gạch đất sét nung là vấn đề mới, khó khăn, phức tạp và cần kiên định với nhiều giải pháp quyết liệt trong thời gian tới.
Quyết định số 567/QĐ-TTG ngày 28/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đặt ra các mục tiêu cơ bản như sau:
Gạch không nung thay thế gạch nung 20%-25% vào năm 2015 và nâng lên 30%-40% vào năm 2020;
Sử dụng khoảng 15-20 triệu tấn phế thải công nghiệp (tro xỉ nhiệt điện, xỉ lò cao…) để sản xuất vật liệu xây dựng không nung, tiết kiệm đất nông nghiệp và hàng ngàn ha đất chứa phế thải.
Tiến tới xóa bỏ hoàn toàn các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công, thủ công cải tiến.
Thế Hoàng

Theo baodautu.vn